Nguồn gốc Jidaigeki

Trong số các hình thức diễn kịch sân khấu tại Nhật thì Kabuki là một trong các loại hình có lịch sử phát triển sớm nhất, và các vở kịch Kabuki với nội dung là các sự kiện xảy ra từ thời Edo trở về trước được gọi là Jidai-mono (thời đại vật). [5] Ngày nay, từ Jidai-mono được dùng để chỉ các loại tiểu thuyết, phim ảnh, diễn kịch nói chung với đề tài, bối cảnh từ thời Edo trở về trước.

Như đã nói trên, Jidai-geki (thời đại kịch) là một thể loại đặc chủng riêng của Nhật Bản, bao trùm ở các mặt kịch sân khấu, phim điện ảnh và phim truyền hình. Kịch sân khấu bắt đầu từ sau thời Duy Tân Meiji, còn lịch sử của Jidai-geki trong điện ảnh bắt đầu từ sau khi Makino Shōzō, người được mệnh danh là cha đẻ của điện ảnh Nhật Bản, dựng bộ phim Jidai-geki đầu tiên là "trận hợp chiến ở chùa Honnō" (Honnō-ji no kassen) vào năm 1908 (năm Meiji thứ 41), và lịch sử của phim truyền hình bắt đầu từ sau đệ nhị Thế chiến (sau 1945).

Vào thời Meiji, từ "tráng sĩ" (sōshi) còn được dùng để chỉ các nhà hoạt động tự do dân quyền. Năm 1888 (Meiji thứ 21) có "tráng sĩ" Sudō Sadanori thuộc đảng tự do khai sinh ra thể loại "kịch tráng sĩ" (Sōshi shibai) ở Ōsaka, sau thể loại này được Kawakami Otojirō phát triển thêm. Từ những năm Meiji 30 (1890) trở về sau, để phân biệt với kịch Kabuki truyền thống, báo giới Nhật Bản gọi Kabuki là "cựu phái kịch" (phái kịch cũ) còn "kịch tráng sĩ" là "tân phái kịch" (phái kịch mới)[6]. Đến năm 1906 lại có Hiệp hội văn hóa của Tsubouchi ShōyōShimamura Hōgetsu, năm 1909 có nhóm Osanai Kaoru, Ichikawa Danza đới thứ hai gọi hình thức diễn kịch chịu ảnh hưởng của kịch cận đại Âu châu của họ là "tân kịch" [7] nhằm phân biệt với cựu phái (Kabuki) và tân phái (kịch tráng sĩ).

Và như vậy, có thể thấy hình thức phân biệt Jidai-geki (thời đại kịch) và Gendai-geki (hiện đại kịch) khởi nguồn từ cách phân biệt từ kịch sân khấu thời Edo.

Về mảng điện ảnh, có thể nói trong thời kỳ đầu nó chịu khá nhiều ảnh hưởng từ cựu phái kịch (Kabuki). Thời Makino Shōzō còn làm việc cho hãng phim Yokota Shōkai ở Kyōto thì các vai nữ trong phim của ông đều do các diễn viên nam gọi là "onna-gata" đảm nhiệm. Mãi cho đến năm 1919 (Taishō thứ 8) thì đạo diễn Kaeriyama Norimasa mới áp dụng nhiều yếu tố của tân kịch vào điện ảnh với bộ phim "cô gái miền sơn cước" (miyama no otome) và khi Osanai Kaori được hãng Shōchiku Cinema mời về làm đạo diễn thì điện ảnh mới thoát khỏi tầm ảnh hững của cựu phái kịch. Miyama no otome là bộ phim Nhật đầu tiên có sự xuất hiện của diễn viên nữ đóng vai nữ.

Năm 1912 (Taishō thứ 11), hãng phim Yokota Shōkai hợp nhất với ba hãng khác, thành lập nên hãng Nikkatsu. Sau khi thành lập, hãng này vẫn tiếp tục sử dụng các diễn viên nam (onna-gata) cho các vai diễn nữ trong các bộ phim đề tài hiện đại (Gendai-geki) và mãi đến năm 1923, thời kỳ xảy ra vụ đại chấn Kantō thì Nikkatsu mới bắt đầu sản xuất Gendai-geki với các yếu tố tân kịch. Lúc đó, tên của hãng cũng phân làm hai, là "Nikkatsu kyū gekibu" (bộ phận cựu kịch Nikkatsu) chuyên làm phim Jidai-geki và "Nikkatsu shin gekibu" (bộ phận tân kịch Nikkatsu) chuyên sản xuất Gendai-geki.

Tại Tōkyō thì có hãng phim Kokusai Katsuei (gọi tắt là Kokkatsu) ở Sugamo cũng từng có thời kỳ chuyên sản xuất Jidai-geki, nhưng sau phá sản vì trào lưu tân kịch trong điện ảnh ngày càng được ưa chuộng nên nhân sự của họ bỏ về Kyōto. Đó là lý do vì sao các diễn viên, đạo diễn Jidai-geki phần lớn ở Kyōto còn những người làm Gendai-geki lại sống ở Tōkyō.Cũng cần nói thêm rằng ngôi sao Jidai-geki đầu tiên là Onoe Matsu-no-suke. Ông từng đóng vai chính qua hơn 1000 bộ phim như Mito Kōmon, Araki Mata-uemon, Chūshingura,...

Từ năm 1920

Năm 1917, Sawada Shōjirō, vốn xuất thân từ tân kịch, đứng lên thành lập "Tân quốc kịch" (Shinkoku-geki) vốn là trung gian giữa cựu phái kịch, tân phái kịch và tân kịch, lại áp dụng những màn đấu kiếm trong Kabuki và hướng tới đại chúng.[8] Tân quốc kịch được đại chúng đón nhận nồng nhiệt, và hai tựa kịch ăn khách của họ thời đó là "Tsukigata Hampeita" và "Kunisada Chūji" rất được yêu thích và sau được dựng thành phim.

Khoảng thời gian này, đạo diễn Makino Shōzō tách rời khỏi hãng phim Nikkatsu để hoạt động độc lập, lập hãng riêng là "sở đào tạo chế tác phim ảnh Makino", sau đổi tên thành Makino Production và đào tạo ra các ngôi sao như Bantō Tsuma-saburō, Arashi Kanjūrō, Tsukigata Ryū-no-suke và Kataoka Chiezō. Những người này sau lại đứng ra thành lập Bantō Tsuma-saburō Production và đào tạo ra hàng loạt những ngôi sao Jidai-geki khác. Bantō Tsuma-saburō cũng là người đầu tiên lập khu quay phim ở Uzumasa-mura, khu ngoại ô ở Kyōto và ngày nay là khu quay phim của hãng Tōei.

Từ giữa thập niên 1930 trở đi, nhờ kỹ thuật Talkie (đồng bộ hình ảnh và âm thanh) mà các rạp chiếu Jidai-geki cũng không còn sử dụng người đứng lồng tiếng sống cho phim nữa mà bộ phim đã có được tích hợp sẵn tiếng nói của diễn viên cũng như âm nhạc. Thời kỳ này còn thấy có phim Jidai-geki âm nhạc của đạo diễn Makino Masahiro là "trận ca chiến giữa uyên và ương" (Oshidora uta kassen).

Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một lượng đạo diễn, diễn viên và khách xem tâm huyết với Jidai-geki câm, năm 1935 (Shōwa thứ 10) hãng phim Gokutō-eiga được thành lập ở thành phố Nishi-miya tỉnh Hyōgo và hãng Ichikawa Uta-emon Production ra đời ở tỉnh Nara. Hai hãng phim này đã sản xuất ra rất nhiều phim Jidai-geki câm cho đến khi giải tán[9].

Từ năm 1945 trở về sau

Kể từ sau chiến tranh Thái Bình Dương, Nhật Bản đầu hàng và đất nước được đặt dưới sự kiểm soát của tổng bộ tư lệnh tối cao Liên hợp quốc (GHQ). Dưới chính sách của phe chiếm đóng, những bộ phim vung đao múa kiếm (Jidai-geki, Chambara) bị xem là mang nặng tinh thần chủ nghĩa quân phiệt, những bộ phim tán thán chuyện báo thù của các Samurai bị cho là yếu tố gây nên lòng căm hận với Hoa Kỳ nên thể loại này bị cấm sản xuất trong một thời gian. Vào thời kỳ, chỉ những loại tiểu thuyết và phim ảnh được gọi là "Torimono-chō" với đề tài là điều tra, bắt bớ tội phạm của các vị quan giữ trật tự trị an thời Edo là được phép chấp bút và công chiếu.

Năm 1953, truyền hình Nhật Bản bắt đầu phát sóng và cũng cùng lúc đó, Jidai-geki chiếu trên truyền hình cũng bắt đầu được sản xuất. Năm 1963, đài truyền hình lớn nhất Nhật Bản là NHK bắt đầu phát sóng loạt phim Jidai-geki dài kỳ kéo dài cho đến hiện giờ là Taiga Drama. Kể từ đó, rất nhiều Jidai-geki được sản xuất cho đến ngày nay.

Trong bối cảnh các chương trình TV khác chuyển đổi sang dạng quay video thì Jidai-geki chiếu trên truyền hình vẫn chủ đạo với lối quay phim nhựa mãi cho đến nửa sau của thập niên 1990, và nó chiếm được một vị trí nhất định với nội dung mang hơi hướng của phim chiếu rạp nhiều hơn là phim truyền hình. Đây là một đặc điểm của Jidai-geki truyền hình và các loại phim thám tử, điều tra tội phạm và loạt phim Tokusatsu với các siêu nhân, người hùng.[10]

Từ năm 1990 trở về sau

Đến những năm 1990 (thời Heisei) cùng với sự xuất hiện của thể loại phim truyền hình Trendy drama với đề tài chủ đạo là tình yêu nam nữ và những vấn đề trong xã hội đương đại thì Jidai-geki trở nên khó tiếp nhận hơn đối với tầng lớp xem đài trẻ tuổi. So với Gendai-geki thì việc dàn dựng Jidai-geki tốn kém hơn rất nhiều (khảo chứng lịch sử, kinh phí dẫn dụng tư liệu, tiền chế tác đạo cụ, phục trang, hóa trang...) và cảnh quan bị hủy hoại cùng với sự phát triển của xã hội nên rất khó bảo tồn các địa điểm quay phim cho đúng với bối cảnh các thời đại cũ. Ngoài ra việc thiếu vắng tầng lớp kế thừa trong đội ngũ sản xuất, đào tạo người không đủ và các tác phẩm đi vào lối mòn sáo rỗng nên Jidai-geki trên TV không còn được ưa chuộng, việc sản xuất và phát sóng thường bị lãng tránh. Tuy nhiên, nhu cầu về Jidai-geki chiếu rạp trong thời kỳ này lại khá cao nên các tác phẩm này cho đến giờ vẫn được các chương trình phát sóng lại có thu phí và mảng phân phối DVD, Video ưa chuộng.[11]

Từ năm 2010 trở lại đây

Khuynh hướng chế tác Jidai-geki dành cho TV vẫn ngày càng giảm. Ngày 19 tháng 12 năm 2011, loạt Jidai-geki chiếu vào 8h tối thứ hai hàng tuần trên đài TBS là Mito Kōmon đã công chiếu tập cuối, kết thúc một chặng đường dài 42 năm lịch sử.Đến năm 2010, Jidai-geki chiếu trên truyền hình đứt mạch hẳn với sự kết thúc của phim "Orin, kẻ đào tẩu 2" (Nogare-mono Orin 2) và phim "Ō-oku tanjō. Arikoto, Iemitsu hen".Trong bối cảnh Jidai-geki lâm nguy như vậy, đài phát sóng qua vệ tinh có thu phí là Sky Premium Service phối hợp với sở phát sóng phim ảnh Nhật Bản qua vệ tinh (Nihon Eiga Eisei Hōsō) bắt đầu phát sóng bộ Jidai-geki mới sản xuất là Onihei Gaiden Yōsagi no Kakuemon vào Tết năm 2011 và bộ phim đã được đón nhận nồng nhiệt, đến tháng 2 năm 2012 thì dự án này lại bắt đầu với bộ phim Onihei Gaiden Kumagorō no kao. Những người sản xuất cũng nói lên quan điểm của mình từ góc nhìn kỹ thuật chế tác, nguy cơ "tuyệt chủng" của văn hóa, kỹ thuật điện ảnh độc đáo của Nhật Bản nên liên đoàn nhân viên làm việc ở điểm quay phim hãng Tōei tại Kyōto đã đứng lên thành lập "hội ủy viên phục hưng Jidai-geki", các diễn viên Jidai-geki không mấy tiếng tăm cũng biểu diễn những pha đấu kiếm, hành động ở làng điện ảnh Uzumasa (Kyōto) nhằm thu hút công chúng cũng như tìm đường sống cho Jidai-geki.

Về phần Jidai-geki chiếu rạp thì từ khoảng giữa thập niên 2000 trở về sau tuy số lượng sản xuất có ít hơn trước đó nhưng có khuynh hướng tăng dần dù không đáng kể. Các tác phẩm Jidai-geki mới cũng chuyển dần địa bàn từ truyền hình sang chiếu rạp. Năm 2010, 5 hãng phim Nhật hợp tác với nhau để tiến hành "chiến dịch phim Samurai" (Samurai Cinema Campaign), đồng thời điểm đó cũng có 5 phim chiếu rạp được công chiếu để quảng bá cho Jidai-geki là "13 thích khách" (Jūsan-nin no shikaku), "biến cố ngoài cổng thành Sakurada" (Sakurada mongai no hen), Raiō, "sổ chi tiêu của Võ sĩ" (Bushi no kakei-bo) và "47 Samurai cuối cùng" (Saigo no Chūshingura).

Như vậy, các nhà làm phim cũng đang tỏ ra rất cố gắng để khơi dậy lòng ham thích của thế hệ trung niên vốn là những khán giả trung tâm của Jidai-geki và họ cũng đang ra sức bảo vệ Jidai-geki, một phần của văn hóa Nhật Bản ở mọi phương diện.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Jidaigeki http://gokuraku-shujo.blogspot.com/search/label/Ji... http://www.nikkansports.com/entertainment/news/p-e... http://youtube.com/theJIDAIGEKI http://www5.hokkaido-np.co.jp/bunka/movie/no7.html http://nichiju.lin.gr.jp/mag/06406/a6.pdf http://kotobank.jp/word/%E5%89%A3%E5%8A%87 http://kotobank.jp/word/%E6%96%B0%E5%8A%87 http://kotobank.jp/word/%E6%96%B0%E5%9B%BD%E5%8A%8... http://kotobank.jp/word/%E6%96%B0%E6%B4%BE%E5%8A%8... http://kotobank.jp/word/%E6%99%82%E4%BB%A3%E5%8A%8...